Giới thiệu chung về cách tính giá thành sản xuất
Dưới đây sẽ đề cập đến các vấn đề sau liên quan đến bài toán tính giá thành sản phẩm sản xuất:
Đối với các doanh nghiệp sản xuất theo đơn hàng thì trong phần mềm Fast Accounting giá thành đang được tính theo lệnh sản xuất nhập ở phân hệ “giá thành sản xuất” chứ không tính theo đơn hàng bán được nhập bên phân hệ bán hàng.
Trường hợp mỗi đơn hàng được sản xuất thông qua một lệnh sản xuất duy nhất thì giá thành sản phẩm theo lệnh sản xuất cũng chính là giá thành sản phẩm của đơn hàng.
Muốn theo dõi giá thành của một đơn hàng bán đi với nhiều lệnh sản xuất thì khi làm phiếu nhập kho thành phẩm phải nhập thêm thông tin về đơn hàng bán gắn với sản phẩm được đặt hàng và sản xuất.
Có những doanh nghiệp sản xuất có nhiều phân xưởng sản xuất và sản phẩm được sản xuất trải qua nhiều công đoạn. Và có thể có nhu cầu tính giá thành bán thành phẩm hoàn thành đến từng công đoạn.
Trong phần mềm Fast Accounting thì phân xưởng và công đoạn sản xuất được khai báo thông qua danh mục bộ phận hạch toán và khi nhập liệu thì nhập tại trường “Mã bpht” (mã bộ phận hạch toán).
Có doanh nghiệp sản xuất sản phẩm qua nhiều công đoạn và yêu cầu tính giá thành cho bán thành phẩm hoàn thành ở từng công đoạn (giá thành phân bước).
Bán thành phẩm hoàn thành ở từng công đoạn được chuyển sang công đoạn tiếp theo để sản xuất cho đến khi ra đến thành phẩm ở công đoạn cuối cùng.
Cũng có trường hợp bán thành phẩm hoàn thành ở một công đoạn nào đó được bán ra ngoài như một thành phẩm hoàn chỉnh.
Chi tiết về các phương án thiết lập khác nhau để tính giá thành công đoạn/phân bước xem tại tính giá thành bán thành phẩm theo công đoạn (giá thành phân bước).
Trường hợp (1): một sản phẩm được sản xuất ở các phân xưởng khác nhau, theo các lệnh sản xuất (đơn hàng) khác nhau nhưng đều có cùng một giá thành. Hoặc doanh nghiệp chỉ có 1 phân xưởng, và/hoặc sản xuất liên tục nhập kho rồi bán chứ không sản xuất theo đơn hàng.
Trường hợp (2): giá thành của cùng một sản phẩm được tính riêng cho từng đơn hàng (lệnh sản xuất). Một sản phẩm được sản xuất ở các lệnh sản xuất (đơn hàng) và giá thành cùng một sản phẩm đó có thể khác nhau cho các đơn hàng khác nhau.
Trường hợp (3): giá thành của cùng một sản phẩm được tính riêng cho từng phân xưởng sản xuất cùng một sản phẩm. Một sản phẩm được sản xuất ở nhiều phân xưởng và giá thành cùng một sản phẩm có thể khác nhau cho các phân xưởng khác nhau.
Trường hợp (4): giá thành của cùng một sản phẩm được tính riêng cho từng phân xưởng và từng đơn hàng. Ở các phân xưởng khác nhau, cho các đơn hàng hàng khác nhau thì cùng 1 sản phẩm có thể có giá thành khác nhau.
Việc tách ra 4 trường hợp nêu trên để thực hiện việc nhóm số liệu khi tính toán - theo các đối tượng: chỉ nhóm theo sản phẩm, nhóm theo lệnh sản xuất và sản phẩm, nhóm theo phân xưởng, lệnh sản xuất và sản phẩm.
Đối tượng tính giá thành ngầm định của tất cả các sản phẩm được khai báo tại tham số hệ thống, tab Tồn kho, stt 745. Tuy nhiên người dùng có thể sửa lại theo đúng đối tượng tính giá thành của sản phẩm đó tại menu Khai báo đối tượng tính giá thành cho các sản phẩm.
Trên thực tế thì việc tập hợp và phân bổ chi phí trong tính giá thành khá là đa dạng. Phụ thuộc vào đặc thù của từng doanh nghiệp.
Mỗi yếu tố chi phí - nvl (tk 621), nhân công (tk 622), chi phí sx chung (tk 627) thường được tập hợp và phân bổ khác nhau. Trong chi phí sx chung thì mỗi loại chi phí chung (tiểu khoản) có thể cũng được tập hợp và phân bổ khác nhau.
Cùng một yếu tố chi phí nhưng với các sản phẩm khác nhau thì các tập hợp và phân bổ cũng có thể khác nhau. Ví dụ, cùng yếu tố chi phí nvl nhưng có sản phẩm thì phát sinh chỉ rõ được cho sản phẩm, có sản phẩm thì phải tập hợp rồi phân bổ theo định mức…
Để đáp ứng sự đa dạng trên thực tế trong phần mềm Fast Accounting sử dụng các trường số liệu sau để tập hợp và phân bổ chi phí trong tính giá thành:
Trong phần mềm cho phép các dạng nhóm số liệu để tập hợp chi phí như sau:
Giải thích về bộ phận hạch toán trực tiếp và gián tiếp xem thêm tại:
Các chi phí phát sinh trong kỳ được ghi nhận hàng ngày và cuối kỳ được tổng hợp theo một trong các dạng nêu trên rồi được phân bổ cho các đối tượng tính giá thành.
Trường hợp chi phí phát sinh đã chỉ rõ cho đối tượng tính giá thành khi nhập liệu thì không phải phân bổ nữa và chỉ việc kết chuyển giá trị tập hợp sang tk cpdd 154 theo đối tượng tính giá thành.
Các trường hợp tập hợp còn thì sẽ phần bổ, phần mềm cho phép phân bổ theo một trong các tiêu chí sau:
Với các chi phí được tập hợp thông qua bộ phận hạch toán gián tiếp thì phải thực hiện phân bổ trước các chi phí này rồi mới thực hiện các phân bổ tiếp theo. Cách phân bổ các chi phí tập hợp qua các bộ phận gián tiếp được khai báo tại “Khai báo phân bổ cp của bộ phận gián tiếp cho các đối tượng”.
Các chi phí được phân bổ theo các ytcp khác thì được thực hiện sau, sau khi đã thực hiện tính toán các chi phí của các ytcp khác.
Lưu ý:
Đối với các sản phẩm có dở dang cuối kỳ thì phải nhập số liệu dở dang ban đầu và dở dang cuối kỳ.
Trên thực tế thường xảy ra trường hợp cùng với một sản phẩm (đối tượng tính giá thành) thì với các loại chi phí khác nhau thì sản phẩm dở dang có thể có mức hoàn thành khác nhau.
Ví dụ, NVL đã xuất ra hết, đã đưa vào sản xuất hết thì mức độ hoàn thành của chi phí NVL là 100%, nhưng chi phí nhân công và chi phí sản xuất chung thì có thể mới ở mức 50%.
Hoặc ngược lại, nhiều trường hợp sản xuất rất nhanh - từ khi bắt đầu cho đến khi ra sp - thì chi phí lương và chi phí sản xuất chung thì không có dở dang, chỉ có chi phí NVL là có dở dang do NVL xuất ra chưa đưa .
Như vậy khi cập nhật sản phẩm dở dang phải cập nhật mức độ hoàn thành cho từng loại chi phí. Ví dụ, nếu 3 loại chi phí có 3 mức độ hoàn thành khác nhau thì với một sản phẩm có dở dang phải nhập 3 dòng dở dang cho 3 loại chi phí.
Lưu ý:
Có doanh nghiệp xuất NVL từ kho về xưởng cho sản xuất nhưng chưa sử dụng hết ngay mà có thể đưa vào sản xuất thực tế qua vài kỳ khác nhau.
Nếu đưa ngay vào chi phí - hạch toán Nợ 621/ Có 152 thì việc tính giá thành, phân bổ chi phí NVL có thể không được chính xác.
Khi này nên tạo một kho, tạm gọi là kho phân xưởng (kho nvl sản xuất…) để theo dõi NVL chưa đưa vào sản xuất thực tế. Như vậy khi xuất từ kho cho xưởng thì làm phiếu xuất điều chuyển kho, còn khi sử dụng thật thì xuất từ kho phân xưởng cho sản xuất.
Xem thêm
Tổng quan về phân hệ giá thành sản xuất